Tham dự Hội nghị có các thành viên Ban Chỉ đạo, đại diện Ban Cán sự đảng, Đảng đoàn, Đảng ủy Trung ương, 63 tỉnh ủy, thành ủy, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tham dự tại điểm cầu TP. Hồ Chí Minh có Phó Chủ tịch UBND Thành phố Ngô Minh Châu.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình nêu rõ: Việc tổng kết, đánh giá 15 năm Chỉ thị 32 tại thời điểm này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh Trung ương đang tiến hành tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Kết quả tổng kết Chỉ thị số 32 sẽ góp phần vào việc đề xuất Bộ Chính trị, Ban Bí thư những định hướng, chính sách, giải pháp tổng thể nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác cải cách tư pháp, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, gắn với tổ chức thi hành pháp luật.
Báo cáo tại hội nghị cho thấy, sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW, công tác PBGDPL đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về vai trò, tầm quan trọng của công tác PBGDPL đã được nâng lên. Hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã được tăng cường, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế-xã hội, ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Cụ thể, việc ban hành thể chế, chính sách của công tác PBGDPL được hoàn thiện, bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện, chặt chẽ với việc ban hành Luật PBGDPL; 3 nghị định của Chính phủ, 7 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 4 thông tư liên tịch, 13 thông tư, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác PBGDPL.
Xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, đề án, kế hoạch PBGDPL có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, ưu tiên các đối tượng đặc thù của công tác PBGDPL, tạo điều kiện thuận lợi về chủ trương, cơ sở pháp lý và nguồn lực cho các bộ, ngành, địa phương triển khai công tác PBGDPL.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 5 quyết định về các chương trình PBGDPL theo từng giai đoạn, mỗi chương trình có các đề án PBGDPL cụ thể.
Nội dung PBGDPL ngày càng đi vào chiều sâu, đáp ứng thực chất hơn nhu cầu thực tiễn và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của các cơ quan, đơn vị, nhất là việc tập trung phổ biến các luật, pháp lệnh mới liên quan đến công tác xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật; các chế độ, chính sách mới được ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần định hướng dư luận xã hội...
Hình thức PBGDPL tiếp tục được đổi mới, sáng tạo, phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể, mang lại hiệu quả thiết thực như: Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng, ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; PBGDPL qua hoạt động giáo dục pháp luật trong nhà trường…
Nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPLđược củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng. Đến ngày 1/5/2019, cả nước có 27.401 báo cáo viên pháp luật và 137.844 tuyên truyền viên pháp luật. Đối với khối trường THCS, THPT, năm học 2017-2018 cả nước có 14.899 giáo viên dạy môn giáo dục công dân. Khối trường đại học, cao đẳng hầu hết đã bố trí giảng viên giảng dạy pháp luật với tổng số 1.418 giảng viên các cơ sở giáo dục đại học (bao gồm cả các trường đang đào tạo chuyên về ngành luật).
Việc tổ chức hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam hằng năm được tổ chức nề nếp, đã tạo hiệu ứng tích cực, trở thành sự kiện chính trị-pháp lý quan trọng của đất nước cả ở Trung ương và địa phương với nhiều điểm nhấn, góp phần tạo sự lan tỏa sâu rộng tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật trong toàn xã hội.
Tuy nhiên, báo cáo tổng kết cũng chỉ rõ những hạn chế, yếu kém qua 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị này.
Đó là, công tác PBGDPL chưa được sự quan tâm đúng mức ở một số cơ quan, tổ chức; chưa xác định công tác này “là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị”, thậm chí còn bị cho là nhiệm vụ của chính quyền các cấp hoặc của riêng ngành tư pháp.
Việc đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, sơ kết, tổng kết… để đúc rút kinh nghiệm, tìm giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác PBGDPL chưa được chú trọng đúng mức. Việc định hướng nội dung PBGDPL đôi lúc chưa sát với nhu cầu thực tiễn, còn dàn trải, có lúc chưa trọng tâm, trọng điểm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác PBGDPL bắt đầu chậm. Một số hình thức PBGDPL chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của đối tượng đặc thù. Cơ sở vật chất, kinh phí dành cho công tác PBGDPL chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa hoặc những địa bàn khó khăn. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, nhân dân chưa chuyển biến rõ nét.
Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, trong 15 năm thực hiện Chỉ thị 32, Thành phố đã xây dựng, cụ thể hóa chính sách pháp luật về công tác PBGDPL; đẩy mạnh, nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng phối hợp phổ biến pháp luật Thành phố, quận huyện trong tổ chức thực hiện PBGDPL; Xác định nội dung trọng tâm và lựa chọn các hình thức PBGDPL phù hợp đối tượng, địa bàn; Xây dựng, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật…
Việc tạo hiệu quả tích cực, đổi mới nội dung, hình thức, mô hình trong công tác PBGDPL đã tạo sức hút với người nghe, kết hợp hài hòa các hình thức tuyên truyền, phổ biến theo phương châm đa dạng, sinh động, gần gũi, dễ hiểu để đạt hiệu quả cao nhất. Ở các nhà trường, thông qua các hoạt động ngoại khóa, việc PBGDPL cũng được triển khai dưới nhiều hình thức sáng tạo, thiết thực. Qua đó, thay đổi rõ rệt về nhận thực, ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân. Công tác PBGDPL ngày càng đi vào nề nếp, thực chất với nhiều hình thức, góp phần tích cực vào việc giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Bên cạnh đó, công tác PBGDPL trên địa bàn Thành phố vẫn gặp phải một số khó khăn, khi một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tích cực tham gia, chưa thực sự gương mẫu chấp hành pháp luật, lời nói chưa đi đôi với việc làm, xem công tác PBGDPL là nhiệm vụ riêng của ngành Tư pháp.
Công tác PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng đạt được những kết quả bước đầu nhưng vẫn chưa tương xứng với quy mô, nguồn lực của các phương tiện này trên địa bàn Thành phố. Chưa có sự đồng bộ giữa hoạt động PBGDPL và công tác xử lý vi phạm pháp luật, hình thức xử phạt chưa đủ sức răn đe.
Ngoài ra, nguồn lực bố trí cho công tác này còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. Chế độ bồi dưỡng đối với nguồn nhân lực thực hiện còn thấp, chưa bù đắp thời gian, công sức đầu tư nên chưa thu hút được nhân lực có trình độ chuyên môn, kỹ năng cao. Bên cạnh đó, mặt trái của mạng xã hội có tác động không nhỏ đến hiệu quả tuyên truyền, PBGDPL.